Tiêu thụ nước biển của con người Nước_biển

Tiêu thụ ngẫu nhiên một lượng nhỏ nước biển sạch thì không nguy hại, nếu như nó được sử dụng cùng một lượng lớn nước ngọt. Tuy nhiên, tiêu thụ nước biển để duy trì sự hydrat hóa là phản tác dụng; khi sử dụng dài lâu hơn thì phải tiêu tốn nhiều nước hơn để loại bỏ muối có trong nước biển (thông qua bài tiết dưới dạng nước tiểu hay mồ hôi) so với lượng nước thu được từ việc uống nước biển[8].

Điều này xảy ra do lượng clorua natri trong máu người luôn được thận điều tiết và duy trì trong một khoảng hẹp chỉ khoảng 9 g/L (0,9% theo trọng lượng). Uống nước biển với nồng độ khoảng 3,5% các ion clorua và natri hòa tan) nhất thời gia tăng nồng độ các ion này trong máu. Điều này kích thích thận gia tăng hoạt động bài tiết natri, nhưng nồng độ natri của nước biển là cao hơn khả năng cô tối đa của thận. Cuối cùng, với lượng gia tăng thêm nữa của nước biển thì nồng độ natri trong máu sẽ vượt ngưỡng gây ngộ độc, nó loại bỏ nước từ mọi tế bào và gây trở ngại cho truyền dẫn tín hiệu thần kinh; gây ra ngập máu và loạn nhịp tim, có thể gây tử vong.

Cũng cần lưu ý là một số loài động vật thích nghi được với các điều kiện sống khắc nghiệt. Chẳng hạn, thận của chuột sa mạc có khả năng cô natri hiệu quả hơn so với thận người và vì thế chúng có thể sống sót kể cả khi buộc phải uống nước biển.

Các cẩm nang sinh tồn đều đưa ra các tư vấn chống lại việc uống nước biển một cách kiên quyết. Chẳng hạn, sách "Medical Aspects of Harsh Environments" (Chương 29 - Shipboard Medicine)[9] đưa ra tổng quan của 163 trường hợp phải sống trên bè mảng trên biển. Rủi ro tử vong ở những người uống nước biển là 39% so với rủi ro 3% ở những người không uống nước biển. Tác động của uống nước biển cũng được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trên chuột[10]. Nghiên cứu này xác nhận các tác động tiêu cực của uống nước biển khi khử hydrat.

Nước biển để rửa nhà vệ sinh

Hồng Kông đang sử dụng một cách tích cực nước biển để dội rửa nhà vệ sinh trên phạm vi cả thành phố. Hơn 90% các nhà vệ sinh ở Hồng Kông được dội rửa bằng nước biển, như là một biện pháp để bảo tồn các nguồn nước ngọt. Sự phát triển của ý tưởng này đã bắt đầu từ những năm thập niên 19601970 khi sự thiếu nước ngọt đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng do dân số của thuộc địa này của Anh (thời điểm đó) tăng lên. Một khía cạnh thú vị của ý tưởng này là xử lý nước thải như thế nào. Nước mặn không thể xử lý (trong các xí nghiệp xử lý nước thải) bằng các phương pháp thông thường.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nước_biển http://www.sealevelcontrol.com/ http://www.waterencyclopedia.com/Mi-Oc/Ocean-Chemi... http://duedall.fit.edu/ocn1010eng/jan27sp.htm http://www.newton.dep.anl.gov/askasci/bio99/bio994... http://www.ncbi.nlm.nih.gov/sites/entrez?cmd=Retri... http://www.nodc.noaa.gov/OC5/WOA01/pr_woa01.html http://cdiac.esd.ornl.gov/ftp/cdiac74/chapter5.pdf http://www.bordeninstitute.army.mil/published_volu... http://www.onr.navy.mil/Focus/ocean/water/temp3.ht... http://web.archive.org/20030615165653/ic.ucsc.edu/...